Trần Đăng Ninh, Phó tổng Thanh tra Ban Thanh tra Chính phủ đầu tiên -Vị “Bao công” của Việt Nam

Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí minh ký Sắc lệnh số 138b-SL lập Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Phủ Thủ tướng và cũng trong ngày này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138c-SL cử các vị sau đây vào Ban Thanh tra chính phủ: Tổng Thanh tra: cụ Hồ Tùng Mậu Tổng Thanh tra phó: ông Trần Đăng Ninh Thanh tra: ông Tô Quang Đẩu Với sắc lệnh này, Trần Đăng Ninh trở thành một Phó tổng Thanh tra Chính phủ đầu tiên của Ngành Thanh tra Việt Nam

Trần Đăng Ninh (1910-1955), tên thật là Nguyễn Tuấn Đáng, quê tại thôn Quảng Nguyên, xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là thành phố Hà Nội). Ông là nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (tháng 10/1948), Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955 và là Phó tổng Thanh tra đầu tiên của Ban Thanh tra Chính phủ (năm 1949).
Sinh ra ở vùng quê nghèo, lớn lên, ông ra Hà Nội học nghề in và làm thợ tại nhà in Lê Văn Tân, sau đó tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930 trong phong trào công nhân ngành in. Năm 1936, ông được cử vào nghiệp đoàn bí mật và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ năm 1937 đến năm 1939, ông đã tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc bãi công, bãi thị, mít tinh, đấu tranh chống thuế...
Năm 1939, ông là Ủy viên Thành ủy Hà Nội, tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Năm 1940, ông là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Khi khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, ông được cử về huyện Bắc Sơn tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng, lập Ủy ban cách mạng, tổ chức du kích, xây dựng căn cứ Ngũ Viễn - Vũ Lăng.
Ngày 11/11/1940, ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 7 cùng các ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu...Hội nghị đã khẳng định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 6 là đúng đắn. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này là phát xít Nhật, quyết định phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và hoãn cuộc khởi nghia Nam Kỳ.
Tháng 5 năm 1941, ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đến tháng 7/1941, ông được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối năm đó, ông bị mật thám bắt và bị kết án 20 năm tù khổ sai. Năm 1942, bị giam tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, ông vẫn hoạt động chống chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc nên cuối năm bị chuyển lên nhà tù Sơn La. Tại đây, ông đã hoạt động trong tổ chức bí mật của Đảng trong nhà lao, tham gia tổ chức huấn luyện chính trị và quân sự cho anh em tù chính trị.
Tháng 3 năm 1943, ông vượt ngục lần thứ nhất trốn khỏi nhà tù Sơn La cùng các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu trở về xuôi và hoạt động trong Ban thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Nhưng đến tháng 9 năm 1943 thì bị bắt lại và bị giam tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.
Tháng 3 năm 1945, ông vượt ngục lần hai. Đây là cuộc vượt ngục có quy mô lớn gồm khoảng 100 tù chính trị, trong đó có các ông Đỗ Mười, Trần Tử Bình. Sau đó, ông được cử làm ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, phụ trách chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8 năm 1945, ông được cử vào Tổng bộ Việt Minh, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc và Đại hội Quốc dân Tân Trào.
Cách mạng tháng tám nổ ra, ông được phân công cùng ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy quân giải phóng, tiến đánh tỉnh lỵ Thái Nguyên, sau đó bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được cử làm Đặc phái viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào công tác ở Trung Bộ và Nam Bộ, Giữa năm 1946, ông được cử lên công tác tại Phú Thọ. Tại đây, ông bị Quốc dân đảng bắt giam và định thủ tiêu, nhưng ông thoát được.
Ngày 20/11/1946, quân Pháp ngang nhiên nổ súng đánh chiếm Hải Phòng. Ông cùng với ông Nguyễn Lương Bằng được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ bí mật ở lại xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, lấy các huyện Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Chợ Mới, Chợ Đồn (Bắc Cạn) làm địa bàn chính. Đồng thời, bố trí địa điểm làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ ở nhiều địa phương khác trong tỉnh Hà Đông (nay là Thành phố Hà Nội).
Năm 1947, ông được cử giữ chức Trưởng ban Kiểm tra Ban chấp hành Trung ương Đảng và năm 1949 kiêm chức Phó Tổng Thanh tra Ban Thanh tra Chính phủ. Ông đã xây dựng nền móng tổ chức cho 2 cơ quan, đặc biệt chú trọng bồi đưỡng về mặt quan điểm tư tưởng, phương pháp kiểm tra và thanh tra cho cán bộ. Đồng thời trực tiếp chỉ đạo các đoàn kiểm tra, thanh tra phát hiện được những vấn đề cấp thiết, đóng góp cho sự lãnh đạo của Trung ương đảng và Chính phủ.
Đầu năm 1950, ông tham gia chuyến đi bí mật cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao và yêu cầu Trung Quốc chi viện cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Giữa năm 1950, ông được cử làm Đặc phái viên Chính phủ phụ trách sửa chữa cầu đường và huy động nhân lực, vật lực phục vụ kháng chiến.
Năm 1950, ông được điều sang công tác trong quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy viên Tổng quân ủy (1950-1955), kiêm Trưởng ban Cung cấp chiến dịch Biên giới (1950).
Trong Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ông cũng chính là người xây dựng hệ thống dân công tiếp tế, một yếu tố dẫn đến thắng lợi cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên, do sức khỏe kém, ông mất sau khi về tiếp quản Hà Nội một thời gian ngắn.
Ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng các Huân chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng nhất, truy tặng Huân chương Sao Vàng năm 2003.
Tên của ông được đặt cho một con đường ở Hà Nội và ở thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ ông, tháng 7 năm 1956, Bưu điện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát hành một bộ tem gồm 4 mẫu in hình chân dung của ông.
Trường THCS của thành phố Nam Định và trường Phổ thông trung học của huyện Ứng Hòa tại xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hòa được mang tên Trần Đăng Ninh.
Tại khu đất của gia đình thôn Quảng Nguyên, xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa quê hương ông, vào năm 2003 đã xây dựng Khu lưu niệm Trần Đăng Ninh.
Vị “Bao Công” của Việt Nam
Trần Đăng Ninh tuy không phải một vị quan tòa, nhưng ông lại được mệnh danh là “Bao Công” của Việt Nam, nhờ những lần “xử án” rất tài tình, đúng đắn, có tình, có lý, không bao giờ để lọt người có tội, nhưng cũng không làm oan người vô tội. Vụ án “Gián điệp H122” chính là một trong những vụ án nổi tiếng nhất mà “Bao công” Trần Đăng Ninh đã xử lý vô cùng độc đáo nhưng cũng rất chuẩn xác, giúp minh oan cho mấy trăm cán bộ và quần chúng vô tội thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Năm 1948, cơ quan quân báo nhận được tin phòng Nhì Pháp đã gài một gián điệp mang bí số H122 vào cơ quan chỉ huy của ta ở liên khu Việt Bắc. Theo tin này, H122 đã lấy được báo cáo về kế hoạch quân sự Thu – Đông năm 1948 của ta và chuyển về cho địch.
Đây thực chất chỉ là một kế hoạch ly gián của địch. Nhưng do tâm lý chủ quan, nóng vội, quan liêu và kinh nghiệm còn non kém của ta, hậu quả của sự việc đã trở nên rất nghiêm trọng.
Ngày đó khi có tin gián điệp H122 được cài vào lực lượng của ta, khắp các đơn vị ở liên khu Việt Bắc đã nhìn nhau với ánh mắt nghi kỵ. Một hôm, có một anh giám mã (chuyên làm nhiệm vụ chăn dắt ngựa) đã vô tình chạy ra sân lấy cái khăn mặt màu trắng vào nhà đúng lúc có máy bay địch bay qua.
Một người trong đơn vị nhìn thấy, cho rằng anh giám mã đó đã dùng “cờ trắng” để báo hiệu cho máy bay địch. Anh giám mã bị bắt ngay sau đó và bị gán cho cái tội là gián điệp H122. Vì quá nóng vội, các cán bộ làm nhiệm vụ thẩm tra anh giám mã đã áp dụng những biện pháp nặng tay không cần thiết với anh giám mã, khiến anh này không chịu được, đành đánh liều thừa nhận mình là H122.
Sau khi thừa nhận mình là gián điệp, “H122” còn chỉ ra thêm những cán bộ khác trong đơn vị cũng là “gián điệp” của phòng Nhì Pháp cài vào.
Cứ như vậy, cán bộ này khai ra cán bộ kia, người này “chỉ điểm” người kia, dần dần vụ án mở rộng ra đến mức có vài trăm cán bộ, trong đó có các cán bộ cấp cao, làm việc ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, nhiều cán bộ ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng bị liên đới.
Việc bắt bớ diễn ra, gây hoang mang cho các đơn vị. Không chỉ thế, nhiều người dân bình thường, trong đó có những người phụ nữ bán xôi rong, cũng bị gán tội “làm gián điệp” do bị người quen “khai” ra.
Trước tình hình đó, nghi ngờ vụ án có uẩn khúc, Bác Hồ đã cử Trần Đăng Ninh - khi đó là Trưởng ban Kiểm tra Trung ương đi kiểm tra, xem xét vụ án nghiêm trọng này. Ông đã tổ chức một đoàn kiểm tra gồm các cán bộ của Ban Kiểm tra Trung ương, của Bộ Quốc phòng, Quân khu Việt bắc, Nha Công an Trung ương, Sở Công an liên khu Việt Bắc, Liên khu ủy Việt Bắc và các tỉnh có liên quan đến vụ án.
Ông cũng yêu cầu đồng chí Lê Giản chọn những cán bộ công an có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm vững vàng tham gia đoàn kiển tra. Ông yêu cầu các cán bộ tham gia công tác kiểm tra phải thật cụ thể, khách quan, thận trọng, tôn trọng chứng cứ, tránh suy diễn tùy tiện, phải thực sự mạnh dạn nêu ý kiến nếu phát hiện nghi vấn khác.
Khi điều tra vụ án H122, điều khiến Trần Đăng Ninh cảm thấy rất không ổn là những tài liệu trong vụ án có nhiều điểm mâu thuẫn với nhau. Hơn nữa, hoạt động gián điệp không thể lộ liễu, xô bồ mà phải đơn tuyến, không thể có chuyện các mạng lưới gián điệp đều nắm giữ thông tin của nhau được, trong khi đó, các cơ quan liên khu đều không thể chỉ ra được tài liệu bị mất là tài liệu nào.
Một điều khiến Trần Đăng Ninh băn khoăn là H122 - một “gián điệp” do phòng Nhì Pháp cài vào hóa ra lại chỉ là một anh giám mã không biết chữ, ngày ngày chăm sóc ngựa, không có điều kiện tiếp xúc với những hồ sơ, tài liệu quân sự quan trọng.
Điều này làm nảy sinh trong lòng ông những nghi vấn. Khi hỏi ra lý do vì sao anh giám mã bị nghi ngờ là H122, ông mới biết chuyện vẫy cờ trắng gọi máy bay của anh giám mã. Là người tôn trọng chứng cứ, cẩn thận trong việc kiểm tra, Trần Đăng Ninh đã đích thân đến tận cái sân mà “H122” vẫy máy bay, ông lập tức thấy có chuyện không ổn:
khoảng sân chỉ rộng bằng vài manh chiếu nhỏ, nằm trong  một khu rừng rậm, từ vị trí đó không thể ra dấu cho máy bay được.
Từ nghi vấn này, ông đã vận động anh giám mã “H122” và những cán bộ bị bắt do có liên quan đến vụ án mạnh dạn khai nhận sự thật. Đến lúc này, “H122” và các cán bộ bị bắt mới thú nhận do không chịu nổi sự tra khảo cực đoan, vội vã của một số cán bộ thi hành nhiệm vụ, nên họ đã đành phải khai sai, khai liều và làm oan thêm những người vô tội khác.
Lập tức Trần Đăng Ninh ra lệnh thả những cán bộ bị bắt trong vụ án gián điệp H122 và chính thức khép lại vụ án. Mấy trăm người bị oan đã được trả tự do, phục hồi công tác. Những cán bộ mắc sai lầm trong vụ án này bị kiểm điểm xác đáng.
Sau này, có lần có dịp đi trực thăng qua các khu rừng rậm, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh vẫn thử nhìn xuống dưới cánh rừng xem có thể nhìn thấy một cái khăn trắng giữa một cánh rừng rậm thế không. Mỗi lần như thế, ông càng vững tin quyết định của mình trong vụ án gián điệp H122 là đúng.
Vụ án gián điệp H122 sau này trở thành bài học kinh điển cho công tác phòng chống gián điệp của ta.
               (Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ)